Giới thiệu

Với bệnh ung thư – cây hoàn ngọc đã được chứng minh



Qua một số bài báo đã đăng tải  (số 60 phát hành ngày 19 – 5 – 2012, số 66 phát hành ngày 2- 6 – 2012 và một số bài báo khác) chúng tôi có đề cập đến một số nhân vật có hoàn cảnh khó khăn mắc bệnh hiểm nghèo như: anh Nguyễn Hồng Ninh (Khu phố 1, phường Bình Đa, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. ĐT: 01644870239) ung thư hạch giai đoạn cuối, viêm gan B. Chị Trần Thị Nghi (sinh năm 1958, trú tại Tổ 8, khu phố 5, phường Phước Trung, thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Điện thoại: 0944153289) ung thư tử cung…Những bệnh nhân này sau nhiều tháng khăn gói vào bệnh viện tá túc, “vái tứ phương” tìm  thầy tìm thuốc nhưng bệnh tình không khỏi mà còn có chiều hướng trầm trọng hơn. Họ đã may mắn “gặp” được trà Hoàn ngọc 7 Nga Tây Ninh, đã thoát được “lưỡi hái tử thần”. Nhiều bạn đọc đã gọi điện thắc mắc, thực hư công dụng của cây hoàn ngọc với bệnh ung thư? Cây hoàn ngọc đã được nghiên cứu, chứng minh như thế nào? Để trả lời những câu hỏi của bạn đọc chúng tôi đã tham khảo ý kiến của các nhà khoa học và cập nhật những thông tin mới nhất về tác dụng phòng chống khối u của cây  hoàn ngọc.

Năm 2007, các nhà khoa học Viện hóa học – Viện khoa học công nghệ Việt Nam đã nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học từ rễ cây hoàn ngọc thu hái tại vườn trồng của DNTN trà hoàn ngọc 7 Nga Tây Ninh. Trong quá trình nghiên cứu, từ rễ cây Hoàn Ngọc, đã phân lập được một số chất có khả năng kháng u thuộc lớp chất tritecpen là lupeol, betulin và lupenone. Có hàm lượng lớn nhất là 2 chất lupeol và betulin. Đây là 2 chất tritecpen có phổ hoạt tính sinh học rộng, đã có rất nhiều công trình khoa học trên thế giới công bố về hoạt tính sinh học của các chất này.

Hai thành phần chính của rễ cây cũng đã bước đầu được nghiên cứu về hoạt tính gây độc tế bào đối với ba dòng tế bào ung thư vú MCF-7, ung thư gan Hep-G2 và ung thư biểu mô KB. Betulin có hoạt tính trên cả ba dòng tế bào được thử MCF-7 (IC50 6,65 µg/ml), Hep-G2 (IC50 32 µg/ml) và KB (IC50 26 µg/ml), còn lupeol có tác dụng đối với dòng tế bào ung thư vú MFC-7 với IC50 là 18,29 µg/ml.

Tính đến năm 2009, đã có trên 50 công trình công bố về hoạt tính phòng chống và chữa bệnh của lupeol và betulin.

Trên cơ sở các kết quả đã nghiên cứu về thành phần hóa học của rễ cây HN, trong khuôn khổ đề tài “Nghiên cứu quy trình công nghệ tạo chế phẩm hỗ trợ phòng chống khối u từ cây hoàn ngọc” của  TS. Nguyễn Thị Minh Hằng và các cộng sự Viện Hóa sinh biển – Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam đã xây dựng một quy trình chiết xuất được chế phẩm. Trong đó có tổng hàm lượng lupeol và betulin lớn hơn 80% và đã thử khả năng kháng u của chế phẩm này cùng một số chế phẩm khác từ cây HN.

Theo đề tài này, sản phẩm tổng tritecpen chiết xuất từ cây hoàn ngọc (Tritecpen-HN) đã được nghiên cứu độc tính cấp, độc tính bán trường diễn và khả năng kháng u. Kết quả cho thấy Tritecpen-HN không gây độc cấp tính trên chuột thực nghiệm (theo tiêu chuẩn của tổ chức OECD). Ở mức liều trung bình và thấp là £ 500 mg/kgP/ngày, Tritecpen-HN không gây độc bán trường diễn trong khoảng thời gian nghiên cứu 30 ngày, không ảnh hưởng đến các chỉ tiêu huyết học và một số enzyme chức năng gan, thận là SGPT, SGOT và Creatinin.

Tritecpen-HN có khả năng kéo dài tuổi thọ cho chuột bị u thực nghiệm ở mức liều trung bình. Tritecpen-HN có khả năng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư trong các khối u thực nghiệm trên mô hình chuột bị gây ung thư in vivo, cụ thể như sau: Tritecpen-HN liều 500 mg/kgP/ngày có khả năng ức chế 19,99% sự phát triển của các tế bào ung thư so với đối chứng. Tritecpen-HN liều 1000 mg/kgP/ngày có khả năng ức chế 63,85% sự phát triển của các tế bào ung thư so với lô đối chứng.

          Về khả năng kháng u của cao dịch chiết nước từ rễ cây HN. Kết quả cho thấy với liều 3000 mg/kgP/ngày cao dịch chiết nước có khả năng ức chế 19,82 % sự phát triển của các tế bào ung thư so với đối chứng. Cao dịch chiết nước từ rễ cây HN liều 5000 mg/kgP/ngày có khả năng ức chế 37,03% và liều 7000 mg/kgP/ngày có khả năng ức chế 60,68% sự phát triển của các tế bào ung thư so với lô đối chứng .

          Ngoài ra các nhà khoa học đã nghiên cứu độc tính cấp và khả năng kháng u của cao chiết etanol 96% của sản phẩm Trà vàng - Hoàn Ngọc 7 Nga Tây Ninh đang được lưu hành trên thị trường. Kết quả thử độc tính cấp đã xác định được giá trị liều LD50 trong khoảng (8,35 ± 0,67) g cao đặc/kg chuột. Kết quả nghiên cứu khả năng kháng u của sản phẩm này cho thấy cao chiết etanol trà vàng HN với liều 1000 mg/kgP/ngày có khả năng ức chế 8,37 %, liều 2000 mg/kgP/ngày có khả năng ức chế 15,02% và liều 3000 mg/kgP/ngày có khả năng ức chế 50,16% sự phát triển của các tế bào ung thư so với lô đối chứng.

Bà Bùi Kim Nga – chủ DNTN Trà Hoàn Ngọc cho biết: Đề tài “Nghiên cứu quy trình công nghệ tạo chế phẩm hỗ trợ phòng chống khối u từ cây hoàn ngọc” là đề tài cấp nhà nước. Theo các kết quả thu được, DN đã được chương trình Hóa Dược phê duyệt và đầu tư dự án sản xuất thử nghiệm 2 sản phẩm dưới dạng viên nang và sẽ ra mắt người tiêu dùng trong cuối năm nay.